Tác động của dân chủ tự do Dân_chủ_tự_do

Ổn định chính trị

Có tranh luận về chế độ dân chủ rằng bằng việc tạo ra một hệ thống mà nhân dân có thể phế bỏ chính quyền, mà không thay đổi nền tảng pháp lý cho chính quyền, nền dân chủ hướng đến việc giảm bất ổn chính trị và bảo đảm với công dân rằng nếu họ không thích các chính sách hiện tại thì họ sẽ có cơ hội khác để thay đổi những người cầm quyền, hay thay đổi các chính sách mà họ không thích. Điều này được ưa thích hơn là thay đổi chính trị diễn ra sau các cuộc bạo động.

Một số người cho rằng ổn định chính trị có thể được xem là thừa khi nhóm người cầm quyền vẫn muốn ở lại thêm một khoảng thời gian nữa. Hình thức này phổ biến hơn ở những chế độ thiếu dân chủ.

Một đặc điểm đáng chú ý của các nền dân chủ tự do là các thành phần chống đối (những nhóm muốn phế truất nền dân chủ tự do) hiếm khi thắng cử. Những người ủng hộ dùng điều này như một lý lẽ để ủng hộ quan điểm của họ rằng dân chủ tự do vốn đã ổn định và thường chỉ có thể bị phế truất bởi ngoại lực, trong khi đó những người chống đối thì cho rằng hệ thống này vốn chống lại họ mặc dầu tuyên bố của nó là công bằng, không thiên vị. Trong quá khứ, người ta sợ rằng nền dân chủ có thể dễ dàng bị những người lãnh đạo độc tài lợi dụng. Tuy nhiên, số nền dân chủ đưa các lãnh đạo độc tài lên nắm quyền là thấp. Điều này chỉ xảy ra sau khi có một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng làm nhiều người nghi ngờ về hệ thống dân chủ hoạt động kém hay non trẻ. Các ví dụ điển hình như Adolf Hitler trong cuộc Đại khủng hoảngNapoléon III trở thành tổng thống của nền Đệ nhị Cộng hòa Pháp non trẻ và hoàng đế sau này.

Hiệu quả bộ máy nhà nước

Điều kiện tiên quyết để có nền dân chủ ổn định là phải có bộ máy nhà nước có hiệu quả. Nếu thiếu điều kiện này thì nền dân chủ không thể tự tạo ra bộ máy nhà nước hiệu quả. Nền dân chủ cần một bộ máy nhà nước hiệu quả hơn bất cứ chế độ chính trị nào khác bởi vì nó cho phép nhiều lực lượng xã hội tham gia vào sự cạnh tranh chính trị. Một chế độ độc tài có thể tồn tại không cần đến bộ máy nhà nước hiệu quả nhưng nền dân chủ chỉ có thể tồn tại khi có một nhà nước hiệu quả. Cuối cùng chế độ dân chủ buông lỏng việc kiểm soát xã hội do đó có thể dẫn đến ly khai, sự thiếu tôn trọng hoặc mong đợi quá mức của dân chúng đối với nhà nước hoặc dẫn đến tình trạng vô tổ chức, vô chính phủ. Hơn nữa mong muốn đòi quyền bình đẳng lớn hơn sẽ khiến những sắc tộc, tôn giáo, cộng đồng, khu vực, tầng lớp... vốn dĩ mờ nhạt nổi lên và có động lực để phản kháng.[9] Trong chế độ dân chủ, nhà nước có khả năng hoạch định và thực thi chính sách càng cao thì mức độ dân chủ càng cao[10]. Những nước có bộ máy nhà nước có khả năng đồng hóa, điều chỉnh và điều khiển xã hội cao hơn sẽ có mức độ dân chủ cao hơn. Điều này không liên quan đến những yếu tố địa lý và kinh tế. Khả năng tạo ra và tái phân phối thu nhập không liên quan đến mức độ dân chủ nhưng là điều kiện cơ bản quyết định mức độ tham gia của dân chúng vào nền dân chủ.[11] Nền dân chủ với bộ máy nhà nước có hiệu quả có thể cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cơ bản tốt hơn những nền dân chủ có bộ máy nhà nước thiếu năng lực so với những quốc gia không dân chủ. Nghĩa là khả năng phục vụ xã hội tùy thuộc hiệu quả của bộ máy nhà nước hơn là hình thức nhà nước.[12]

Trong thời chiến

Theo định nghĩa, dân chủ tự do ngụ ý rằng quyền lực là không tập trung. Có chỉ trích rằng điều này có thể là một bất lợi cho quốc gia trong thời chiến khi mà phản ứng nhanh và thống nhất là cần thiết. Cơ quan lập pháp thường phải có một sự đồng thuận trước khi bắt đầu một hoạt động quân sự tấn công nào đó. Nếu một nước dân chủ bị tấn công thường thì không cần có sự đồng thuận nào để có các hành động bảo vệ. Người dân có thể bỏ phiếu chống lại chế độ cưỡng bách tòng quân. Theo lý thuyết thì các nền quân chủ, các chế độ độc tài có thể hành động tức thời và mạnh mẽ.

Tuy nhiên, những nghiên cứu thực sự cho thấy rằng các nước dân chủ thường thắng trong các cuộc chiến hơn so với các nước không dân chủ. Có giải thích cho điều này chính là "sự minh bạch chính thể, và sự ổn định sự ưu tiên của họ, một khi đã quyết định, các nước dân chủ có thể hợp tác tốt hơn với bạn bè của mình trong việc chỉ đạo cuộc chiến". Một nghiên cứu khác cho rằng điều này là do sự huy động phương kế hay sự tuyển chọn tốt hơn cho các cuộc chiến[13].

Stam và Reiter (2002, trang 64–70) cũng cho rằng việc nhấn mạnh tính cá nhân trong xã hội dân chủ có nghĩa là các binh sĩ của nó chiến đấu với sự lãnh đạo tốt và sáng suốt hơn. Các sĩ quan trong các chế độ độc tài thường được chọn vì sự trung thành chính trị hơn là khả năng của họ. Họ cũng có thể không được chọn vì xuất phát từ giai cấp thấp hay các nhóm dân tộc/tôn giáo thiểu số ủng hộ chế độ. Các người lãnh đạo ở các nước không dân chủ có thể phản ứng bạo lực với những chỉ trích hay hành động bất tuân. Điều này làm cho các binh sĩ và sĩ quan ngại phản đối hay làm bất kỳ điều gì mà không được chỉ định rõ ràng. Sự thiếu óc sáng kiến có thể đặc biệt phương hại đến các cuộc chiến hiện đại. Binh lính địch có thể thúc thủ các nền dân chủ vì họ có thể được đối xử tương đối tốt. Đức quốc xã giết khoảng 2/3 lính Xô Viết bị bắt. Khoảng 38% lính Mỹ bị Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên bắt trong Chiến tranh Triều Tiên bị giết.

Thông tin

Một hệ thống dân chủ có thể cung cấp thông tin tốt hơn về việc quyết định chính sách. Các thông tin có thể gây rắc rối dễ dàng bị chế độ độc tài bỏ qua ngay cả khi những thông tin gây rắc rối hay chống đối này đưa ra cảnh báo trước về các vấn đề nguy hại. Hệ thống dân chủ cũng cung cấp cách thức thay các chính sách hay các lãnh đạo không hiệu quả. Vì vậy, các vấn đề nguy hại có thể kéo dài và tất cả các loại khủng hoảng phổ biến hơn trong các chế độ chuyên quyền[14].

Tham nhũng

Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy rằng các thể chế chính trị cực kỳ quan trong việc quyết định sự lan tràn của tham nhũng: dân chủ, chế độ nghị viện, sự ổn định chính trị, và tự do báo chí có liên hệ mật thiết với việc giảm tham nhũng[15]. Pháp luật về tự do thông tin là quan trọng cho trách nhiệm giải trình và sự minh bạch. Luật Quyền Thông tin của Ấn Độ "đã và đang đem lại các phong trào rộng lớn ở quốc gia này là làm giảm các quan chức thờ ơ và hối lộ và thay đổi cán cân quyền lực một cách triệt để"[16].

Một nghiên cứu cho thấy các nước mới chuyển đổi sang nền dân chủ sẽ bùng nổ tình trạng tham nhũng nhưng những nước có nền dân chủ vững chắc lại ít tham nhũng. Những điều kiện chính trị ban đầu và thành tựu dân chủ đạt được sẽ quyết định mức độ tham nhũng ở một quốc gia.[17] Một nghiên cứu khác cũng cho thấy dân chủ càng cao thì càng ít tham nhũng nhưng tiềm năng chống tham nhũng của nền dân chủ phụ thuộc nhiều điều kiện khác nhau chứ không đơn thuần là sự tồn tại của cạnh tranh chính trị thông qua hệ thống bầu cử đã đủ để làm giảm tham nhũng[18].

Khủng bố

Một vài nghiên cứu cho kết luận rằng chủ nghĩa khủng bố phổ biến nhất ở những quốc gia có tự do chính trị vừa phải. Các quốc gia dân chủ nhất thì có ít nạn khủng bố nhất. Tuy nhiên, các nhà chỉ trích dân chủ phương Tây như Noam Chomsky cho rằng, tùy thuộc vào định nghĩa chính thức về khủng bố, những nước dân chủ tự do đã ra nhiều luật chống khủng bố chống lại các nước khác.

Kinh tế

Theo thống kê, càng dân chủ thì tổng thu nhập quốc nội (GDP) tính theo đầu người cũng cao hơn.

Tuy nhiên, có bất đồng về mức độ ảnh hưởng của chính phủ dân chủ đối với vấn đề này. Một quan sát cho thấy rằng nền dân chủ chỉ lan truyền sau cuộc Cách mạng công nghiệp và sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh, một trong những nước dân chủ nhất trong nước trong thời gian đó. (Nhưng nền dân chủ này rất giới hạn và không được áp dụng cho những thuộc địa, những vùng đã làm cho sự thịnh vượng của chính quốc.)

Một số nghiên cứu về thống kê ủng hộ thuyết cho rằng chủ nghĩa tư bản càng phát triển sẽ tăng tăng trưởng kinh tế[19] và điều này sẽ đến tăng sự thịnh vượng chung, giảm nghèo đói, và tạo sự dân chủ hóa. Theo nhà xã hội học Seymour Martin Lipset những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người, mức độ công nghiệp hóa và đô thị hóa, trình độ giáo dục cao hơn sẽ dân chủ hơn (định luật Lipset). Đây là một trong những điều kiện tiên quyết của nền dân chủ.[20] Những nghiên cứu khác cũng cho thấy khẳng định của Lipset là đúng vì mức độ dân chủ của một quốc gia sẽ được cải thiện khi thu nhập bình quân đầu người của quốc gia đó tăng lên[21]. Tuy nhiên còn nhiều yếu tố khác quyết định sự tồn tại của nền dân chủ nên Ấn Độ, là nước nhưng người ta có thể cho rằng không thịnh vượng lại có nền dân chủ, hoặc như Brunei, Arab Saudi, Qatar, Kuwait... có GDP cao nhưng không dân chủ. Cũng có những nghiên cứu khác cho là càng dân chủ sẽ tăng tự do kinh tế mặc dầu một số ít nhận thấy không có hoặc ít ảnh hưởng tiêu cực[22][23][24][25][26][27]. Có những chống đối như là Thụy ĐiểnCanada có hơi ít tự do về kinh tế hơn những nước như ChileEstonia nhưng lại có GDP trên đầu người cao hơn. Tuy nhiên, đây là sự hiểu nhầm, nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng trong tăng trưởng kinh tế và vì vậy GDP tính trên đầu người trong tương lai sẽ cao hơn và tự do kinh tế nhiều hơn. Cũng nên chú ý rằng, theo Chỉ số Tự do Kinh tế, Thụy Điển và Canada là những nước tư bản nhất trên thế giới vì những yếu tố như pháp trị, quyền sở hữu tài sản mạnh và ít hạn chế về thương mại tự do. Các nhà chỉ trích có thể tranh luận rằng chỉ số đó và những phương pháp khác được dùng đến không đo lường mức độ chủ nghĩa tư bản.

Một số người lại cho rằng sự phát triển kinh tế vì sự trao quyền cho công dân sẽ bảo đảm một cuộc quá độ đến dân chủ ở những nước như Trung Quốc. Tuy nhiên, một số khác lại bác bỏ điều này. Ngay cả khi sự phát triển kinh tế đã gây ra sự dân chủ hóa trong quá khứ nhưng chưa chắc sẽ diễn ra trong tương lai. Những kẻ độc tài bây giờ có thể đã học được cách phát triển kinh tế mà không dẫn đến tự do chính trị hơn[28].

Mức xuất khẩu dầu hay khoáng vật ở mức cao có liên hệ chặt chẽ với luật không dân chủ. Ảnh hưởng này diễn ra trên toàn thế giới và không chỉ ở Trung Đông. Các nhà độc tài ở dạng giàu có này có thể tiêu tốn nhiều hơn cho các thiết bị an ninh và cung cấp phúc lợi để giảm bất ổn xã hội. Ngoài ra, sự giàu có đó cũng không dẫn theo những thay đổi về xã hội và văn hóa, những thứ có thể thay đổi xã hội với sự phát triển kinh tế thông thường[29].

Những phân tích trên một lượng lớn dữ liệu gần đây cho thấy rằng dân chủ không có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế[30]. Tuy nhiên nó lại có ảnh hưởng gián tiếp như làm tăng tuổi thọ ở nước nghèo và tăng giáo dục trung học ở những nước không nghèo[30]. Dân chủ cũng có liên quan với việc tích lũy tiền cao hơn, lạm phát thấp hơn, giảm bất ổn chính trị và tăng tự do kinh tế. Cũng có một vài bằng chứng cho thấy rằng dân chủ cũng có liên quan đến chính phủ lớn hơn và nhiều giới hạn trong thương mại quốc tế[31].

Nếu không kể Đông Á, thì trong suốt bốn mươi lăm năm gần đây các nước dân chủ kém (như các nước vùng Baltic, Botswana, Costa Rica, GhanaSénégal) đã phát triển nền kinh tế của họ nhanh hơn các nước không dân chủ (Angola, Syria, UzbekistanZimbawe) 50%[14].

Với tám cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất trong suốt bốn thập kỷ qua, chỉ có năm nước có dân chủ. Tương tự như vậy, khoảng một nửa các nước dân chủ kém cùng với các nước không dân chủ đã trải qua sự sụt giảm 10% GDP tính trên đầu người trong một năm[14].

Nạn đói và tỵ nạn

Nhà kinh tế học nổi tiếng, Amartya Sen, đã lưu ý rằng không có nền dân chủ đang có nào đã từng bị nạn đói lớn nào hoành hành[32]. Điều này gồm cả những nền dân chủ đã không giàu có trong lịch sử, như Ấn Độ, nước đã có một nạn đói kinh khủng năm 1943 và nhiều nạn đói trên quy mô lớn trước đó vào cuối thế kỷ 19, dưới thời cai trị của Anh. Tuy nhiên, một số người đổ tội cho Nạn đói Bengal năm 1943 là hệ quả của Chiến tranh thế giới thứ hai[cần dẫn nguồn]. Chính phủ Ấn Độ đã tiến bộ hơn về dân chủ trong nhiều năm. Chính quyền của các bang đã hoàn toàn được như vậy từ Đạo luật Chính chủ Ấn năm 1935.

Các cuộc khủng hoảng người tị nạn hầu như diễn ra nhiều ở các nước không dân chủ. Nhìn vào số dòng người tị nạn trong hai mươi năm qua, trong số tám mươi bảy trường hợp đầu đã diễn ra ở các nước có chế độ chuyên quyền[14].

Sự phát triển con người

Nền dân chủ có tương liên với điểm số cao trong chỉ số phát triển con người và điểm số thấp hơn trong chỉ số nghèo đói của con người.

Các nền dân chủ tồi có nền giáo dục tốt hơn, tuổi thọ cao hơn, tỷ lệ tử vong sơ sinh thấp hơn, việc tiếp cận nước uống và chính sách chăm sóc sức khỏe tốt hơn các chế độ độc tài tồi. Điều này không phải vì sự trợ giúp của ngoại quốc cao hơn hay tiêu tốn nhiều phần trăm GDP hơn cho sức khỏe và giáo dục mà là các nguồn tài nguyên sẵn có được quản lý tốt hơn[14].

Một số chỉ số sức khỏe (như tuổi thọ, tỉ lệ tử vong sơ sinh và tử vong người mẹ khi sinh) có quan hệ mật thiết với dân chủ hơn quan hệ với GDP tính trên đầu người, độ lớn của lĩnh vực công, hay chênh lệch thu nhập[33].

Ở các quốc gia trong thời hậu cộng sản, sau sự tàn lụi ban đầu, hầu hết các quốc gia đó có dân chủ trong nước và đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong việc tăng tuổi thọ[34].

Thuyết hòa bình dân chủ

Rất nhiều nghiên cứu sử dụng các loại dữ liệu, định nghĩa và phân tích thống kê để hỗ trợ cho thuyết hòa bình dân chủ. Việc khám phá đầu tiên là các nền dân chủ tự do chưa gây chiến với các nước khác. Các nghiên cứu gần đây đã mở rộng thuyết này và nhận thấy rằng các nền dân chủ có ít xung đột quốc tế được quân sự hóa (militarized interstate disputes - MID) gây ra ít hơn 1000 lính chiến trường tử vong với nước khác. Đối với các MID đã và đang diễn ra giữa các quốc gia dân chủ chỉ gây ra một ít thương vong, và cũng có ít nội chiến hơn[35]. Cũng có nhiều phê phán thuyết này, gồm các cuộc chiến cụ thể trong lịch sử và sự tương quan đó không phải là nguyên nhân.

Chính phủ thảm sát quần chúng

Các nghiên cứu cho thấy rằng nhiều nước dân chủ có ít nạn diệt chủng hay giết người do chính phủ tiến hành hơn[36]. Tương tự như vậy, những nước đó cũng có ít nạn ám sát chính trị hơn[37].

Tự do và quyền

Tự do và quyền của người dân của xã hội dân chủ tự do được xem là có ích.

Hạnh phúc

Các nền dân chủ thường có liên hệ với việc tự thấy hạnh phúc ở mức cao trong một quốc gia[38].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Dân_chủ_tự_do http://65.110.85.181/uploads/pdf/essay2006.pdf http://ojs.uac.edu.co/index.php/dimension-empresar... http://www.freetheworld.com/papers.html http://www.nytimes.com/cfr/international/20040901f... http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id... http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/1540-59... http://muse.jhu.edu/demo/jod/10.3sen.html http://www.asiamedia.ucla.edu/article.asp?parentid... http://www.cidcm.umd.edu/inscr/genocide/ http://www.cidcm.umd.edu/inscr/polity/